Hội chứng Guillain – barre là một rối loạn tự miễn thuộc nhóm viêm đa rễ và dây thần kinh. Nắm được các giai đoạn của hội chứng Guillain – Barre sẽ giúp bệnh nhân và người nhà nhận biết, phát hiện, cấp cứu và điều trị kịp thời cho bệnh nhân, hạn chế nguy cơ tử vong.
Có 4 giai đoạn hội chứng Guillain – Barre
Hội chứng Guillain – Barre có 4 giai đoạn:
1. Giai đoạn tiền triệu: 5-6 tuần
– 60% bệnh nhân có biểu hiện nhiễm trùng kiểu vi rút: viêm phế quản, họng, tiêu hoá
– 10% xuất hiện sau một can thiệp ngoại khoa, tiêm phòng vắc xin, tiêm huyết thanh
– Một số khác có thể không sốt, có biểu hiện rối loạn cảm giác chủ quan, nhức đầu, đau mình.
– Một số tác nhân gây bệnh ( được kể đến trong y văn): cytomegalovirus, mycoplasma pneumoniae, Epstein-bar virus, Campylobacter Jejuni, chẩn đoán xác định khó, các xét nghiệm đắt tiền.
– Thường bệnh nhân chỉ để ý khi có: rối loạn vận động kín đáo ( như khó đi, khó leo cầu thang) khám kỹ, thấy có triệu chứng bắt đầu chi dưới, có tính chất cân xứng.
2. Giai đoạn tiến triển: thời gian trung bình khoảng 10-12 ngày
– Thể cấp tính, dữ dội: liệt lan lên, liệt hô hấp trong vòng 48 giờ
– Thường liệt lan dần, có thể liệt tứ chi ngay, liệt gốc chi nhiều hơn ngọn chi, mất hoặc giảm phản xạ gân xương, hiếm bắt đầu từ chi trên
– Liệt cơ hô hấp: cơ hoành, các cơ liên sườn, dẫn đến giảm thể tích khí lưu thông, giảm Vt tự thở, dễ dẫn đến xẹp phổi.
– Một số bệnh nhân có thể bắt đầu bằng liệt dây thần kinh sọ:
+ Liệt mặt 2 bên
+ Liệt dây IX X: Liệt màn hầu, nuốt sặc
+ Liệt dây XII: không lè được lưỡi
+ Liệt dây V: không cắn chặt hàm được.
– Rối loạn cảm giác:cảm giác sâu như cảm nhận vân động khớp, rung âm thoa(-), cảm giác nông như loạn cảm, dị cảm đầu chi
– Rối loạn ý thức: ít khi xảy ra nếu thông khí nhân tạo tốt.
– Rối loạn thần kinh tự chủ:
+ Nhịp chậm, dễ ngừng tim khi hút đờm
+ HA có thể tăng vọt
+ RL vận mạch và bài tiết: vã mồ hôi, tăng tiết
+ RL tiêu hoá: dãn dạ dày, liệt ruột
+ RL cơ tròn: táo, bí đái, bí ỉa
+ Tăng ADH: hậu quả tiểu ít, ứ nước.
* Dịch não tuỷ: Protein tăng tới 10g/lít. Tế bào ít, dưới 10-20/ ml
* Dấu hiệu tiên lượng nặng:
– Sớm: RL nuốt dễ dấn đến sặc, cơ hoành, liên sườn yếu dẫn đến giảm Vt , hậu quả có thể xẹp phải TKNT
– Thời gian tiến triển nhanh, cấp tính, liệt vận động toàn bộ, đòi hỏi cần phải hô hấp nhân tạo, giai đoạn này để lại nhiều di chứng.
* Chẩn đoán phân biệt giai đoạn này với:
– Tổn thương tuỷ: Viêm tuỷ lan lên (bại liệt, sau tiêm phòng vác xin…), viêm màng nhện tuỷ, chèn ép tuỷ(lao, ung thư, thoát vị, xuất huyết…)
– Hội chứng đuôi ngựa: chỉ khi có biểu hiện liệt hai chân
– Bệnh lý thần kinh ngoại vi do rựơu, đái tháo đường.
– Bệnh lý sợi trục của bệnh hệ thống
– Porphyrie
– Giảm kali máu (West phall)
3. Giai đoạn cao nguyên: vài ngày, vài tuần
– Là giai đoạn tồn tại các triệu chứng rối loạn vận động, cảm giác, thần kinh thực vật, thần kinh tự động cho tới khi bắt đầu xuất hiện dấu hiệu hồi phục vận động.
– Các chú ý:
+ Rối loạn thần kinh thực vật nặng: tăng huyết áp, nhịp nhanh, nhịp chậm, rối loạn tái cực, có thể nhìn thấy trên điện tâm đồ
+ Các biến chứng hô hấp: xẹp phổi, viêm phổi do hít
4. Giai đoạn hồi phục: 20, 40 ngày, có thể tới vài tháng
– Hồi phục vận động của cơ hô hấp, của cơ các chi
– Các rối loạn chậm hồi phục: vận động ngọn chi, rối loạn cảm giác (dị cảm, cảm giác sâu khi đi lại, liệt dây thần kinh sọ…)
– Tái phát lại trong giai đoạn này hoặc về sau: ít, sấp sỉ khoảng 5%
Lời kết
Hội chứng Guillain – barré là một cấp cứu thần kinh, nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, bệnh nhân có nguy cơ tử vong do suy hô hấp hoặc sặc phổi do rối loạn chức năng nuốt hoặc thậm chí có thể bị ngừng tim do tổn thương dây thần kinh chi phối tim. Mặc dù vậy, khi qua được giai đoạn nguy hiểm, đại đa số các trường hợp đều hồi phục hoàn toàn sau 6 tháng – 1 năm, tuy nhiên khoảng 10% các trường hợp để lại di chứng về vận động hoặc cảm giác.
Nguồn: Y Dược 365 (theo HSCC – BV Hữu Nghị)